Báo cáo sơ kết 5 năm thực hiện Kết luận 73- KL/TW của Ban Bí thư Trung Ương Đảng ( khóa 10 ) về tiếp tục thực hiện Chỉ thị 51 - CT/TW của Ban Bí thư TW Đảng ( khóa VI ) việc giúp đỡ Hội người mù Việt nam
Số: 511 /BC-HNM |
Hà Nội, ngày 31 tháng 8 năm 2015 |
BÁO CÁO SƠ KẾT 5 NĂM THỰC HIỆN KẾT LUẬN 73 -KL/TW
CỦA BAN BÍ THƯ TRUNG ƯƠNG ĐẢNG (KHÓA X) VỀ TIẾP TỤC THỰC HIỆN CHỈ THỊ 51- CT/TW CỦA BAN BÍ THƯ TW ĐẢNG
(KHÓA VI) VIỆC GIÚP ĐỠ HỘI NGƯỜI MÙ VIỆT NAM
________________________
Hội Người mù Việt Nam được thành lập ngày 17/4/1969, trải qua 47 năm hoạt động Hội luôn nhận được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, các ngành chức năng từ Trung ương tới địa phương. Đặc biệt từ khi Chỉ thị 51/CT-TW, ngày 12 tháng 4 năm 1989 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa VI) ra đời đúng vào lúc đất nước bắt đầu thời kỳ đổi mới và hội nhập. Chỉ thị của Đảng thể hiện tính nhân văn sâu sắc, chính là ngọn lửa tin yêu thắp sáng lên trong lòng người mù cả nước, hy vọng xua tan đi mặc cảm của những năm tháng bất hạnh.
Sau 20 năm triển khai thực hiện Chỉ thị 51-CT/TW, ngày 12-4-1989 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (Khóa VI) về việc giúp đỡ Hội Người mù Việt Nam về thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước việc giúp đỡ người mù và Hội Người mù. Ban Bí thư đã nhận định: Nhận thức và trách nhiệm của các cấp Ủy Đảng, Chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân đã có sự chuyển biến tích cực. Tổ chức Hội Người mù Việt Nam được củng cố và phát triển, chất lượng hoạt động không ngừng được tăng lên, đời sống vật chất, tinh thần của hội viên và người mù được cải thiện hơn. Hội luôn là chỗ dựa, để hội viên phấn đấu vươn lên ổn định cuộc sống, thực sự là mái nhà chung, là nơi chia sẻ tâm tư, nguyện vọng của người mù. Bằng ý chí, nghị lực, người mù đã nỗ lực vươn lên, vượt qua số phận, trở thành người có ích cho xã hội, tự khẳng định mình ngày càng hoà nhập vào cộng đồng.
Tuy nhiên công tác giúp đỡ người mù và Hội Người mù Việt Nam còn chưa đồng đều rộng khắp, cho đến năm 2010 vẫn còn 19 Tỉnh và nhiều Quận, Huyện, Thành phố, Thị xã chưa thành lập Hội người mù. Công tác kiểm tra, đôn đốc thực hiện Chỉ thị 51-CT/TW chưa thường xuyên và chưa kịp thời. Chính sách đối với người mù và Hội Người mù chưa được thực hiện đồng bộ, một số chính sách không còn phù hợp nhưng chậm được bổ sung, sửa đổi; điều kiện cơ sở vật chất và kinh phí phục vụ cho hoạt động của Hội còn hạn hẹp. Công tác xã hội hoá chăm lo, giúp đỡ cho người mù tuy đã được quan tâm nhưng chưa đạt được kết quả như mong muốn. Hoạt động của Hội người mù các cấp còn hạn chế, chưa chủ động, còn mặc cảm, tự ti, nhất là ở cơ sở.
Để khắc phục những hạn chế trên, ngày 16 tháng 6 năm 2010 Ban Bí thư Trung ương Đảng (Khóa X) đã ban hành Kết luận số 73-KL/TW về tiếp tục thực hiện Chỉ thị 51-CT/TW, ngày 12-4-1989 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (Khoá VI) việc giúp đỡ Hội Người mù Việt Nam (trích từ Kết luận 73-KL/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa X)
PHẦN THỨ NHẤT
KẾT QUẢ TRIỂN KHAI THỰC HIỆN
KẾT LUẬN 73 -KL/TW CỦA BAN BÍ THƯ TRUNG ƯƠNG ĐẢNG (KHÓA X)
I. Tổ chức quán triệt, triển khai, xây dựng kế hoạch thực hiện và kiểm tra, đôn đốc thực hiện Kết luận 73-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa X) ở các cấp, các ngành:
1. Đối với cấp Trung ương
Sau khi Kết luận 73-CT/TW, ngày 16 tháng 6 năm 2010 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa X) ban hành; Văn phòng Chính phủ đã có văn bản số 5099/VPCP-KGVX, ngày 21 tháng 7 năm 2010 chỉ đạo các Bộ, ngành có liên quan và Ủy ban nhân dân các Tỉnh, Thành phố rà soát các chế độ, chính sách hiện hành đối với người mù, đề xuất sửa đổi, bổ sung hoặc trình cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung nhằm tạo cơ hội cho người mù hoà nhập với cộng đồng.
2. Đối với cấp Tỉnh, Thành phố
Ban Thường vụ Tỉnh, Thành ủy ở những địa phương có tổ chức Hội Người mù đã triển khai nội dung Kết luận đến các cấp ủy Đảng, Chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể… đã chỉ đạo cụ thể việc tổ chức quán triệt nội dung Kết luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt, xác định vai trò, trách nhiệm của Cấp ủy Đảng chính quyền, chỉ đạo UBND tỉnh giao các Sở, Ban, ngành chức năng chịu trách nhiệm giúp đỡ, hướng dẫn Hội Người mù, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể phối hợp, giúp đỡ Hội, từ đó xây dựng chương trình kế hoạch và tổ chức thực hiện, giao Ban Dân vận tham mưu cho các Cấp ủy Đảng chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc các cấp, các ngành trong việc giúp đỡ Hội Người mù hoạt động.
Ở những Tỉnh, Thành mới chia tách hoặc chưa thành lập Hội Người mù, Tỉnh ủy đã chỉ đạo các cơ quan Dân vận, Tổ chức chính quyền, Lao động TB&XH, các cấp, các ngành xúc tiến việc tái thành lập hoặc thành lập Hội và tạo điều kiện cho hội hoạt động. Hầu hết các cơ sở Đảng đều có kế hoạch tổ chức quán triệt đến đảng viên, triển khai thực hiện các chương trình, kế hoạch cụ thể về chăm lo, giúp đỡ Hội Người mù và người mù.
Các cơ quan tuyên truyền, thông tấn, báo chí từ Trung ương đến địa phương đã tuyên truyền về nội dung của Kết luận đến các tầng lớp xã hội, xác định trách nhiệm của cộng đồng trong việc chăm sóc, giúp đỡ để người mù thêm tự tin, vươn lên hòa nhập cùng gia đình và cộng đồng xã hội. Tuyên truyền về các hoạt động của Hội, gương người tốt việc tốt, gương người mù học tập, sản xuất kinh doanh giỏi… Đây chính là một trong những vấn đề thể hiện tinh thần trách nhiệm của toàn xã hội đối với người mù, cũng như thể hiện tính nhân đạo, tính nhân văn sâu sắc của dân tộc Việt Nam.
II/ Kết quả tổ chức thực hiện Kết luận 73-KL/TW ở các cấp, các ngành:
1. Cấp Trung ương:
Thực hiện sự chỉ đạo của Văn phòng Chính phủ, tại văn bản số: 5099/VPCP- KGVX, ngày 21 tháng 7 năm 2010, về tiếp tục thực hiện Chỉ thị 51 - CT/TW việc giúp đỡ Hội Người mù Việt Nam. Các Bộ, ngành đã ban hành văn bản, chính sách hỗ trợ cho Hội Người mù hoạt động, gồm các văn bản sau:
Bộ Giáo dục và đào tạo có văn bản gửi các trường Đại học, Trung học chuyên nghiệp và phổ thông chủ động trong việc xây dựng quy chế thi, tuyển đối với học sinh là người mù vào học tại các trường; Văn bản hướng dẫn chuyển đổi sách giáo khoa; Văn bản số 1362/BGDĐT - TCCB, ngày 20 tháng 3 năm 2014 trình Chính phủ đề nghị vận dụng chế độ phụ cấp ưu đãi cho Nhà giáo, cán bộ quản lý Trung tâm Đào tạo Cán bộ Phục hồi chức năng cho người mù thuộc Hội Người mù Việt Nam, theo quy định tại Nghị định 61/2006/NĐ-CP; Tiếp đó Văn phòng Chính phủ có văn bản số 4424/VPCP- KGVX, ngày 16 tháng 6 năm 2014 đồng ý vận dụng chế độ phụ cấp ưu đãi cho Nhà giáo, cán bộ quản lý Trung tâm Đào tạo Cán bộ Phục hồi chức năng cho người mù thuộc Hội Người mù Việt Nam được hưởng 70% phụ cấp ưu đãi theo quy định tại Nghị định 61/2006/NĐ-CP; Bộ Tài chính có văn bản số 13802/BTC-HCSN, ngày 30/9/2014 về việc bổ sung kinh phí phụ cấp ưu đãi nghề cho Trung tâm Đào tạo - Cán bộ Phục hồi chức năng cho người mù thuộc Hội Người mù Việt Nam.
Bộ Lao động -Thương binh và Xã hội có văn bản số 1659/BLĐTBXH-BTXH, ngày 20 tháng 5 năm 2014, gửi Ủy ban Nhân dân các Tỉnh về việc thành lập Hội Người mù ở các địa phương chưa có tổ chức Hội; Bộ luôn đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện chính sách an sinh xã hội đối với người khuyết tật nói chung, người mù nói riêng; Tạo điều kiện cho Hội tham gia các chương trình Nhà nước: Chương trình tạo việc làm, vay vốn từ quỹ quốc gia giải quyết việc làm, dạy nghề, tập huấn Luật về người khuyết tật, Nghề Công tác xã hội.
Ban Dân vận Trung ương Đảng thường xuyên kiểm tra, nắm bắt việc thực hiện Kết luận số 73-KL/TW và chính sách của Đảng đối với hội quần chúng ở các địa phương; Có văn bản số 36 và 36a-CV/BDVTW, ngày 02 tháng 02 năm 2014, đề nghị Trung ương Hội và Tỉnh ủy, Ủy ban Nhân dân các Tỉnh, Thành phố Sơ kết 5 năm thực hiện Kết luận 73-KL/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa X) về việc giúp đỡ Hội Người mù Việt Nam.
Bộ Thông tin - Truyền thông có văn bản gửi Sở Thông tin - Truyền thông các Tỉnh, Thành phố về việc giúp đỡ Hội Người mù địa phương tổ chức liên hoan Tin học. Đồng thời phối hợp với Trung ương Hội tổ chức liên hoan Tin học toàn quốc và một số đề tài nghiên cứu giúp người mù tiếp cận ứng dụng Công nghệ - Thông tin.
Bộ Văn hóa - Thể thao & Du lịch, giúp đỡ Hội tổ chức Hội thi “Tiếng hát từ Trái tim”.
Ngân hàng chính sách xã hội phối hợp tốt với Hội về việc thẩm định, giải ngân và thu hồi vốn từ quỹ quốc gia giải quyết việc làm;
Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, tiếp tục triển khai chương trình phối hợp với Hội Người mù Việt Nam về việc giúp đỡ phụ nữ mù.
Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chỉ đạo Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp huy động các tổ chức thành viên, các tầng lớp nhân dân, giúp đỡ tổ chức hội và người mù xây nhà Đại đoàn kết, các hoạt động từ thiện, tổ chức tặng quà cho người mù nhân dịp lễ, tết…
2. Cấp Tỉnh, Thành phố:
Dưới sự chỉ đạo của Thường trực Tỉnh ủy, Ủy ban Nhân dân đã giao nhiệm vụ cụ thể cho các cơ quan của địa phương theo chức năng của từng ngành, xây dựng kế hoạch, tạo điều kiện thuận lợi cho Hội Người mù hoạt động: Điển hình là Tỉnh hội Thanh Hóa, được Ủy ban Nhân dân ban hành Quyết định quy định về cơ cấu tổ chức, bộ máy cán bộ và cơ chế, chính sách, kinh phí hoạt động dành riêng cho tổ chức Hội Người mù các cấp; Cấp ủy Chính quyền chỉ đạo người đứng đầu các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền địa phương hằng năm phải tiếp xúc đối thoại trực tiếp với người mù để lắng nghe những kiến nghị, đề xuất chính đáng của hội viên và tổ chức hội, từ đó có cơ sở quan tâm giúp đỡ tạo điều kiện; Tỉnh hội Hà Tĩnh, Long An: Cán bộ các cấp Hội đều được hưởng phụ cấp trách nhiệm, phụ cấp vất vả, một số đơn vị ở vùng sâu, vùng xa được hưởng phụ cấp khu vực; Tỉnh hội Thừa Thiên Huế được bổ sung 5 chỉ tiêu biên chế cho Trung Tâm Giáo dục - Hướng nghiệp trẻ em mù và Trung tâm dạy nghề, tạo việc làm thuộc Tỉnh hội; Tại Đại hội nhiệm kỳ V (2015-2020) Hội Người mù Tỉnh Thừa Thiên Huế được Ủy ban Nhân dân tỉnh cho phép dùng chung Điều lệ Hội Người mù Việt Nam; Tỉnh hội Phú Yên, nhiệm kỳ đầu tiên đã thành lập được 8/9 Huyện hội; Tỉnh hội Cao Bằng, Phú Thọ, là những tỉnh Miền núi có nhiều khó khăn, nhiều năm nay không phát triển được đơn vị nào, nhưng khi có Kết luận 73 - KL/TW, mỗi Tỉnh đã phát triển được 3 Huyện hội; Tỉnh hội Bình Dương 100% người mù trong tỉnh được hưởng mức trợ cấp thường xuyên cao hơn mức trợ cấp quy định của Nhà nước; Tỉnh hội: Hòa Bình, Sơn La, Vĩnh Long, Trà Vinh, Hậu Giang, Yên Bái, thành lập sau Nghị định 45-CP/NĐ vẫn được Ủy ban Nhân dân Tỉnh có quyết định công nhận là Hội đặc thù, được hỗ trợ kinh phí, trang thiết bị làm việc và phương tiện đi lại... . một số Tỉnh hội cán bộ lãnh đạo, cán bộ chuyên môn kiêm nhiệm Trung tâm dạy chữ - dạy nghề, được hưởng chế độ phụ cấp ưu đãi theo Nghị định 61/NĐ-CP của Chính phủ, được bổ sung kinh phí dạy chữ, dạy nghề, mua sắm trang thiết bị phục vụ cho hoạt động Hội; Tỉnh hội Hải Dương, được cấp trụ sở làm việc mới, diện tích trên 1.000m2; Thành hội Đà Nẵng, được cấp 5.000m2 đất và hỗ trợ kinh phí để xây dựng xưởng sản xuất tập trung cho người mù; Từ tháng 5/2015 Tỉnh hội Phú Thọ, không phải đi thuê nhà dân làm việc nữa mà đã được cấp 2 phòng làm việc chung với trụ sở của các khối hoàn thể; …Đến nay đa số các Tỉnh, Thành hội đều có trụ sở làm việc, được chính quyền địa phương công nhận là Hội đặc thù…hầu hết các đơn vị có cán bộ sáng giúp việc, được cấp kinh phí hoạt động thường xuyên, có nơi hỗ trợ phụ cấp cho cả Chi hội trưởng.
3. Đối với tổ chức Hội Người mù:
Kết luận 73-KL-TW tiếp tục là động lực cho việc phát triển hoạt động Hội, Ban Thường vụ Trung ương Hội đã có văn bản chỉ đạo các các cấp hội triển khai, quán triệt sâu rộng xuống tận hội viên.
Trung ương Hội đã triển khai, khảo sát và làm việc với lãnh đạo Tỉnh ủy, Ủy ban các tỉnh, tháo gỡ khó khăn cho các tỉnh trong việc thực hiện kết luận 73-KL/TW; Các cấp Hội đã xây dựng chương trình, kế hoạch cụ thể, nhiều cuộc vận động được phát động, nhiều phong trào thi đua được triển khai, nhằm đưa hoạt động Hội đạt được nhiều kết quả hơn nữa, trên cơ sở thực hiện chủ đề của Đại hội nhiệm kỳ VIII (2012-2017): “Đoàn kết, dân chủ, đổi mới, hội nhập, tích cực tham gia các chương trình Nhà nước, phấn đấu vì Hạnh phúc người mù” Thực hiện nhiệm vụ trọng tâm hàng năm: Nâng cao trình độ, năng lực lãnh đạo, đẩy mạnh các mặt hoạt động, thực hiện tốt cuộc vận động “Tăng cường đoàn kết, chủ động vươn lên, bình đẳng, hòa nhập với cộng đồng” và Chương trình việc làm xóa đói giảm nghèo” do Trung ương Hội triển khai đã có sức lôi cuốn mạnh mẽ ở các địa phương.
Các cấp Hội đề xuất với các cấp Ủy đảng, Chính quyền, các cơ quan chức năng hỗ trợ, giúp đỡ, ban hành các văn bản, chính sách phù hợp, giúp cho hoạt động của Hội được thuận lợi hơn, đồng thời tích cực vận động, tranh thủ cộng đồng, tranh thủ bạn bè quốc tế hỗ trợ về cơ sở vật chất, phương tiện, chuyên dùng. Vì vậy, tổ chức Hội Người mù đã phát triển nhanh chóng, các mặt hoạt động ngày càng phong phú, đa dạng và thiết thực. Cụ thể trên các mặt công tác sau:
3.1. Công tác củng cố, xây dựng và phát triển.
Nhận thức được tâm quan trọng của Kết luận số 73/KL-TW, các cấp Hội đã tranh thủ sự chỉ đạo, lãnh đạo của chính quyền địa phương để kịp thời phản ánh những kiến nghị đề xuất, tâm tư nguyện vọng của cán bộ, hội viên để có sự tạo điều kiện áp dụng, vận dụng giải quyết các chế độ chính sách cho tổ chức hội và người mù. Bên cạnh đó Ban Chấp hành, Ban Thường vụ các Tỉnh, Thành hội đã nỗ lực phấn đấu giữ vững ổn định trong nội bộ Hội, kiện toàn lại bộ máy làm việc, xây dựng Qui chế, qui định chức trách, nhiệm vụ quyền hạn của từng cá nhân; Ban Chấp hành các cấp hội được củng cố, trẻ hóa, 100% cán bộ Thường trực Hội được đào tạo qua các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý, chính trị tại Trung tâm đào tạo của Trung ương Hội hoặc địa phương, vai trò lãnh đạo của cán bộ hội ngày càng được nâng lên, triển khai hoạt động có hiệu quả, sự đoàn kết nội bộ ở nhiều cấp hội đã được nâng lên rõ rệt, các mặt hoạt động luôn được duy trì và mang lại hiệu quả thiết thực, đời sống người mù ngày càng được cải thiện cả về vật chất lẫn tinh thần, xóa đi mặc cảm tự ti, vươn lên hòa nhập cùng cộng đồng xã hội.
Năm năm thực hiện Kết luận 73 - KL/TW, nhiều người mù đã được kết nạp vào Đảng, các cấp hội đã thành lập các tổ chức cơ sở Đảng, Công đoàn, Phụ nữ, Đoàn thanh niên Cộng sản HCM, không những góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động, bảo vệ lợi ích chính đáng của người lao động, tăng cường sự đoàn kết trong nội bộ, mà còn tham gia các phong trào thi đua, văn hoá văn nghệ, thể dục, thể thao do các đoàn thể tổ chức, góp phần tuyên truyền, xã hội hoá hoạt động hội, gắn kết hoạt động hội với hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể ở địa phương.
Sau 5 năm thực hiện Kết luận 73-KL/TW, Hội Người mù Việt Nam đã thành lập thêm được 10 Tỉnh hội; 31 Huyện hội; 158 Hội xã, phường và 8.065 Hội viên. Tính đến tháng 7/2015, Hội Người mù Việt Nam đã có tổ chức ở 54 Tỉnh, Thành hội, 418 Huyện hội, 158 Hội xã, phường và 68.071 hội viên.
3.2. Công tác Lao động -Việc làm và đời sống:
Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, việc làm là nhu cầu chính đáng của mọi thành viên trong xã hội. Đối với người mù, việc làm ngoài vấn đề là nhu cầu cuộc sống còn là sự khát khao được bình đẳng trong gia đình và ngoài xã hội. Đảng, Nhà nước và các Bộ, ngành đã tạo điều kiện cho Hội mở kênh riêng trong nguồn vốn vay từ Quỹ quốc gia giải quyết việc làm. Hiện nay Trung ương Hội đang quản lý 49.651.460.000đ (so với 5 năm trước, tăng 10 tỷ đồng) cho 8.202 hộ vay, thu hút 9.600 lao động ở 49 Tỉnh hội, với gần 400 Huyện hội. Bằng sự quản lý chặt chẽ, cho vay đúng đối tượng, đại đa số hội viên sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả, nhiều hội viên đã thoát nghèo, được các Ban, Ngành, Ngân hàng Chính sách xã hội, từ TW đến địa phương đánh giá là đơn vị sử dụng vốn tốt nhất.
Chương trình tạo việc làm cho hội viên với mô hình sản xuất tập trung và sản xuất tại gia đình được các cấp hội luôn chú trọng quan tâm, hiện nay các cấp hội vẫn duy trì tốt hoạt động ở 367 cơ sở sản xuất tập trung, doanh số trong 5 năm đạt 433,693 tỷ đồng, tạo việc làm ổn định cho gần 4.000 lao động (trong đó có 231 cơ sở xoa bóp, thu hút 2.665 lao động) lương bình quân của người lao động thủ công là: 1.120.000đ/ng/tháng đồng/người/tháng; riêng nghề xoa bóp bấm huyệt đạt bình quân 2.100.000đ/ng/tháng. So với 5 năm trước số cơ sở sản xuất tập trung tăng 33 cơ sở, doanh thu tăng 125,5 tỷ đồng, số lao động tăng 220 người, lương bình quân tăng của cơ sở sản xuất tập trung tăng 494.000đ/ng/tháng; cơ sở Tẩm quất - xoa bóp tăng 900.000đ/ng/tháng; Các cơ sở sản xuất tập trung đã đầu tư các trang thiết bị máy móc và cải tiến công cụ để nâng cao năng suất chất lượng sản phẩm, đáp ứng yêu cầu của thị trường. Qua các hình thức sản xuất, dịch vụ phong phú nên số người mù trong độ tuổi lao động có việc làm được tăng lên và ổn định cuộc sống, nhiều cơ sở sản xuất, dịch vụ đã tạo điều kiện đóng Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y tế cho người lao động, để người lao động yên tâm làm việc lâu dài, gắn bó với Hội.
Với sự hỗ trợ của chương trình mục tiêu quốc gia về dạy nghề của Nhà nước, kinh phí các dự án hoặc quyên góp vận động từ thiện…Trong 5 năm qua các địa phương đã tổ chức được 448 lớp học nghề, truyền nghề ngắn hạn cho 6.742 học viên với các nghề tin học, thủ công, xoa bóp bấm huyệt, ca nhạc, tăm, chổi. Kinh phí hơn 20 tỷ đồng (trong đó ngân sách là 11 tỷ đồng). Sau khoá học gần 100% học viên được cấp chứng chỉ nghề, gần 80% có việc làm ổn định tại các cơ sở sản xuất dành riêng cho người mù hoặc tự tổ chức cơ sở sản xuất, dịch vụ cá nhân.
Việc xây nhà Đại đoàn kết và sửa nhà đã được nhiều Tỉnh, Thành hội phối hợp chặt chẽ với Chính quyền, Mặt trận Tổ quốc các cấp và vận động sự giúp đỡ đóng góp của các tổ chức đoàn thể, các nhà từ thiện, dòng họ gia đình … trong 5 năm qua đã xây dựng được 1.152 nhà, trị giá trên 28 tỷ đồng; sửa chữa 490 nhà, trị giá hơn 3 tỷ đồng.
Nguồn trợ cấp xã hội, trợ cấp khó khăn đã góp phần nâng cao mức sống của người mù nghèo, đa số các đối tượng trong diện đều được hưởng trợ cấp xã hội theo quy định của Chính Phủ. Ngoài ra người mù còn được cấp thẻ BH y tế, được miễn phí xe buýt, miễn giảm các loại thuế và các khoản đóng góp của địa phương hoặc con người mù đi học cũng được nhà trường tạo điều kiện miễn, giảm các khoản đóng góp,. Một số đơn vị đã phối hợp với các nhà tài trợ, từ thiện, ngành y tế để mổ mắt đem lại ánh sáng cho hàng ngàn người mù. Một số Tỉnh hội đã tranh thủ vận động các cơ quan doanh nghiệp, nhà hảo tâm trong và ngoài tỉnh hỗ trợ kinh phí, có Tỉnh đã xây dựng được Trụ sở làm việc và Trung tâm, trị giá hàng tỷ đồng. Nhiều đơn vị đã vận động được kinh phí khá cao để chăm sóc hội viên, cao nhất là Tỉnh hội Tiền Giang, năm 2014 đã vận động được 7.690 triệu đồng.
Cùng với nguồn trợ giúp của ngân sách Nhà nước, các cấp Hội đã tranh thủ các nguồn tiền, vật chất từ thiện hoặc trích từ lãi suất của nguồn vốn tự có để trợ giúp cho người mù nhân dịp lễ tết hoặc khi gặp khó khăn do thiên tai lũ lụt, mất mùa, khi đau ốm cho hàng trăm nghìn lượt với nhiều phần quà, sổ tiết kiệm và tiền mặt, trị giá hàng chục tỷ đồng mỗi năm, góp phần giúp người mù cải thiện cuộc sống.
Chương trình Truyền thông dân số kế hoạch hoá gia đình, Hội vẫn duy trì tốt mối quan hệ với Vụ truyền thông Giáo dục, Ban quản lý dự án Chương trình mục tiêu Quốc gia - Tổng cục Dân số KHHGĐ.
3.3. Công tác đời sống văn hóa tinh thần.
Chữ nổi (chữ Braille) là phương tiện không thể thiếu được đối với người mù trong học tập, nâng cao dân trí, mở mang kiến thức, thay đổi cuộc sống. Trong 5 năm qua, cùng với sự phát triển của tổ chức Hội, phong trào học tập trong hội viên ngày càng mở rộng, các cấp hội đã mở được 512 lớp xóa mù chữ cho 5.750 cán bộ Hội, 02 cán bộ mù đã tốt nghiệp Thạc sỹ; 45 hội viên đỗ vào các trường Đại học, Cao đẳng. Nâng tổng số lên hàng chục nghìn người mù được xóa mù chữ; trên 300 hội viên trẻ đang theo học tại các trường Đại học, Cao đẳng và trên đại học; trên 7.000 trẻ em mù học hòa nhập tại các trường phổ thông; Công nghệ - Thông tin mở ra đã giúp người mù tiếp cận Công nghệ hiện đại, nhờ phần mềm hỗ trợ âm thanh, gần 3.000 người mù đã được học Tin học, nhờ đó thông tin dân trí của người mù và năng lực làm việc của cán bộ các cấp hội được nâng lên đáng kể.
Nhiều hội diễn, nhiều cuộc thi văn nghệ, thi đọc viết nhanh chữ Braile, thi tin học… được tổ chức hàng năm ở các cấp hội, một số hội viên tham gia cuộc thi “Chữ Baile thay đổi cuộc đời tôi” do Hiệp Hội Người mù Châu á Thái Bình dương tổ chức và phong trào Thể dục - thể thao dành cho người khuyết tật, đã đạt giải cao trong các cuộc thi trong và ngoài nước.
Với 4 loại hình: Báo chữ nổi, báo nói, báo chữ Việt và trang Web của Hội đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền về khả năng, nguyện vọng của người mù, kết quả hoạt động của Hội, để tranh thủ sự ủng hộ của xã hội, đồng thời tích cực tham gia các phong trào thi đua của Trung ương. Đặc biệt cán bộ, hội viên đã tích cực tham gia cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” do Bộ Chính trị phát động; tích cực tham gia cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết, xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”, Cuộc vận động “Xóa đói giảm nghèo” do Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phát động. Ngoài ra các cấp Hội còn thực hiện các cuộc vận động của Trung ương Hội và chính quyền địa phương.
Mối quan hệ với các Hội người mù trên thế giới, các tổ chức từ thiện trong và ngoài nước ngày càng mở rộng, qua đó Hội có thêm điều kiện học tập kinh nghiệm, tranh thủ viện trợ về xây dựng cơ sở vật chất, các dự án về học tập, sản xuất, xóa đói giảm nghèo. Hội Người mù Việt Nam đã làm tốt công tác đối ngoại nhân dân, tuyên truyền về đất nước, con người Việt Nam và tổ chức của Hội Người mù Việt Nam với bạn bè quốc tế.
Với những thành tích đã đạt được trong 5 năm qua Hội Người mù Việt Nam đã được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân Chương Độc lập hạng Nhất; nhiều tập thể và cá nhân các cấp hội được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương, được Thủ tướng Chính phủ tặng Bằng khen và nhiều Bằng khen, Kỷ niệm chương của Mặt trận Tổ quốc, các Bộ, Ngành và Ủy ban Nhân dân Tỉnh…được Hiệp Hội Người mù thế giới và Hiệp hội Người mù khu vực châu Á, Thái Bình Dương, đánh giá là một trong những Hội hoạt động có hiệu quả;
Những kết quả trên đã cho thấy: Thực hiện Kết luận 73-KL/TW ngày 16/6/2010 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa X) về việc giúp đỡ Hội Người mù Việt Nam, các cấp ủy Đảng, chính quyền, các ban, ngành, đoàn thể, tổ chức xã hội, bằng nhiều hình thức đã quan tâm, giúp đỡ, tạo điều kiện cho Hội Người mù Việt Nam. Về phía Hội Người mù Việt Nam khi nhận được sự quan tâm, giúp đỡ, tạo điều kiện đã đẩy mạnh công tác tập hợp và chăm sóc đời sống văn hóa, tinh thần, vật chất cho người mù, tiếp tục tạo ra những lớp người mù mới có văn hóa, có nghề nghiệp mang dấu ấn của Chủ nghĩa xã hội, góp phần vào công cuộc đổi mới của đất nước.
III. ĐÁNH GIÁ CHUNG
1. Ưu điểm:
Sau 5 năm thực hiện Kết luận 73 -KL/TW ngày 16/6/2010 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa X) về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 51-CT/TW ngày 12/4/1989 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa VI) việc giúp đỡ Hội Người mù Việt Nam, đã đạt được hiệu quả thiết thực, nhận thức của toàn xã hội trong việc chung tay giúp đỡ Hội Người mù và người mù có chuyển biến tích cực, cơ sở vật chất phục vụ hoạt động Hội ngày càng được cải thiện, đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của người mù ngày càng được nâng lên, xóa đi mặc cảm tự ti, vươn lên hòa nhập cùng cộng đồng xã hội, góp phần thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Về phía Hội Người mù Việt Nam:
Khi nhận được sự quan tâm, giúp đỡ, tạo điều kiện, các cấp Hội đã đẩy mạnh công tác tập hợp, giáo dục, chăm sóc đời sống văn hóa, tinh thần, vật chất của người mù, góp phần thực hiện chính sách xã hội của Đảng, Nhà nước, đưa tổ chức hội ngày càng phát triển và đã khẳng định được vị thế trong cộng đồng.
2.Tồn tại, hạn chế.
Chính sách đối với người mù và Hội người mù chưa được thực hiện đồng bộ, một số chính sách không còn phù hợp nhưng chậm được bổ sung, sửa đổi, thiếu thống nhất; Điều kiện cơ sở vật chất và kinh phí phục vụ cho hoạt động của Hội còn hạn hẹp; Đa số cán bộ Hội xã, phường, thị trấn chưa được hưởng phụ cấp.
Trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ còn chưa đồng đều, công tác tham mưu cho cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương của một số cấp Hội chưa được cụ thể, rõ ràng, hoặc tham mưu chưa phù hợp với thực tế địa phương; nội dung hoạt động chưa đáp ứng được yêu cầu, một bộ phận người mù còn mang tư tưởng trông chờ ỷ lại, mặc cảm tự ti, nên vẫn còn người mù khó khăn. Hiện nay tỷ lệ hội viên nghèo còn cao (25,1 %)
IV. NGUYÊN NHÂN
1. Nguyên nhân đạt được:
Nội dung Kết luận 73 -KL/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa X) về tiếp tục thực hiện Chỉ thị 51 - CT/TW, ngày 12/4/1989 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa VI) việc giúp đỡ Hội Người mù Việt Nam, đã được các cấp ủy Đảng đã chỉ đạo sâu sát với tinh thần trách nhiệm cao.
Các cấp chính quyền và các ngành chức năng đã quan tâm, giúp đỡ, tạo điều kiện đối với Hội Người mù bằng các chủ trương, chính sách phù hợp. Mặt trận Tổ quốc vừa trực tiếp, vừa vận động các tổ chức thành viên bằng nhiều hình thức hỗ trợ, tạo điều kiện để Hội đẩy mạnh hoạt động chăm sóc hội viên và người mù.
Hội Người mù Việt Nam đã đề ra nhiều biện pháp, thông qua các phong trào thi đua, các cuộc vận động, đã xã hội hóa hoạt động Hội, đẩy mạnh công tác tập hợp và chăm sóc đời sống văn hóa, tinh thần, vật chất của người mù, cùng với sự nỗ lực phấn đấu của các cấp hội và sự cố gắng vượt qua những khó khăn rào cản của bản thân và gia đình người mù.
2. Nguyên nhân tồn tại, hạn chế.
Các cơ chế chính sách dành cho người khuyết tật, dành cho hội đặc thù chậm đổi mới, không phù hợp với tình hình hiện nay.
Cấp ủy Đảng, Chính quyền ở một số Tỉnh, Thành phố thực hiện và triển khai Kết luận 73–KL/TW còn ở mức độ, đến nay vẫn còn 09 Tỉnh chưa có tổ chức Hội: Lạng Sơn, Tuyên Quang, Hà Giang, Bắc Kạn, Lào Cai, Điện Biên, Lai Châu, Kom Tum, Đắc Nông; Một số địa phương có tổ chức Hội ở Tỉnh từ nhiều năm nay nhưng vẫn chưa phát triển được Huyện hội hoặc phát triển chưa hết. Trong khi đó người mù trong Tỉnh có nguyện vọng và khát khao được tham gia vào tổ chức Hội, được trở thành hội viên, được học chữ, học nghề, lao động sản xuất, vay vốn làm kinh tế gia đình như bao nhiêu người mù khác ở các Tỉnh đã có tổ chức Hội.
Chính sách đối với Hội Người mù đã ban hành nhưng còn thiếu thống nhất, mang tính vận dụng theo từng địa phương, nhiều nơi nhận thức về Kết luận chưa đầy đủ, sự quan tâm và ủng hộ hoạt động của Hội còn phụ thuộc nhiều vào quan điểm của cán bộ cơ quan chức năng.
Về phía Hội Người mù: Một số cán bộ lãnh đạo các cấp Hội năng lực còn yếu, chưa được đào tạo đầy đủ, cơ sở vật chất còn thiếu thốn, kinh phí hoạt động hạn hẹp, nên hoạt động của một số cấp hội đạt hiệu quả chưa cao.
V. BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Từ thực tế 5 năm triển khai thực hiện Kết luận 73-KL/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa X) chúng ta rút ra bài học kinh nghiệm như sau:
1. Cấp Hội nào có nhận thức đúng, ý thức trách nhiệm cao, tích cực, chủ động và tranh thủ được sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, sự giúp đỡ của nhân dân thì hoạt động sẽ đạt được kết quả cao.
2. Nơi nào cán bộ cấp ủy Đảng, Chính quyền địa phương giữ vai trò quan trọng trong việc thực hiện Kết luận 73-KL/TW có quan điểm đúng, nhiệt tình, quan tâm đến cuộc sống người mù thì ở đó phong trào, hoạt động của Hội thu được nhiều kết quả.
3. Cán bộ, hội viên đoàn kết, năng động, khắc phục khó khăn, phấn đấu vươn lên, không trông chờ, ỷ lại thì hoạt động tốt hơn, sẽ nhận được sự quan tâm, giúp đỡ, hỗ trợ nhiều hơn.
PHẦN THỨ HAI
NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP TIẾP TỤC THỰC HIỆN KẾT LUẬN 73 - KL/TW TRONG THỜI GIAN TỚI CỦA HỘI NGƯỜI MÙ VIỆT NAM
Để tiếp tục thực hiện có hiệu quả Kết luận 73-KL/TW ngày 16/6/2010 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa X) trong thời gian tới, nhiệm vụ và giải pháp của Hội Người mù Việt Nam, như sau:
1. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng, trọng tâm là Kết luận số 73/KL-TW, về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 51/CT-TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khoá VI), việc giúp đỡ Hội Người mù và Luật Người khuyết tật, Công ước quyền của Người khuyết tật của Liên Hiệp Quốc và các Chỉ thị, Thông tư, công văn của Tỉnh ủy, Ủy ban Nhân dân các Tỉnh, Thành phố, nhằm tiếp tục tạo sự chuyển biến, nhận thức trong cán bộ, hội viên và cộng đồng xã hội về việc chăm sóc, giúp đỡ người mù và Hội Người mù.
2. Tiếp tục đề nghị các cấp ủy đảng, chính quyền địa phương trong việc chăm lo, giúp đỡ người mù và Hội Người mù; Thành lập tổ chức Hội người mù ở những địa phương chưa có Hội; tạo điều kiện về cơ sở vật chất, phương tiện, trụ sở, kinh phí và chế độ phụ cấp cho cán bộ ở các cấp Hội, đảm bảo các cấp Hội hoạt động thuận lợi, hiệu quả. Tạo điều kiện để Hội Người mù được tham gia các chương trình quốc gia về Văn hóa, giáo dục, việc làm, dạy nghề, dân số Kế hoạch hóa gia đình…
3. Tiếp tục đổi mới phương thức hoạt động, nâng cao năng lực lãnh đạo, đoàn kết, dân chủ, sáng tạo, hội nhập, tích cực tham gia các chương trình của Nhà nước, phấn đấu vươn lên, tập trung mọi nguồn lực xây dựng Hội Người mù Việt Nam phát triển toàn diện “Vì Hạnh phúc người mù”.
ĐỀ XUẤT KIẾN NGHỊ
1. Ban Dân vận Trung ương Đảng, tham mưu Ban Bí thư có văn bản chỉ đạo 09 Tỉnh chưa có tổ chức Hội Người mù thì sớm thành lập Hội; Các Tỉnh hội, Huyện hội thành lập sau Nghị định 45/2010 của Chính phủ, vẫn được tạo điều kiện về cơ sở vật chất, phương tiện, trụ sở, kinh phí và chế độ phụ cấp cho cán bộ các cấp Hội, đảm bảo các cấp Hội hoạt động thuận lợi, hiệu quả.
2. Bộ Nội vụ tham mưu Chính phủ cho cán bộ trong chỉ tiêu biên chế hoặc hợp đồng trong chỉ tiêu làm việc ở Hội Người mù Việt Nam được hưởng chính sách đãi ngộ tương đương phụ cấp công vụ (35%), trên cơ sở Kết luận 73/KL-TW; văn bản 5099/VPCP- KGVX, về tiếp tục thực hiện Chỉ thị 51 của Ban Bí thư TW (khóa VI) việc giúp đỡ người mù và Hội Người mù; Kết luận 102-KL/TW, ngày 22 tháng 9 năm 2014 của Bộ Chính trị, về Hội quần chúng.
3. Các Bộ, Ngành theo chức năng giúp Hội thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia về giáo dục, việc làm, dạy nghề, nâng cao dân trí, xóa mù chữ, dân số Kế hoạch hóa gia đình.
Nhìn lại 5 năm triển khai thực hiện Kết luận 73-KL/TW về tiếp tục thực hiện Chỉ thị 51-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng, chúng ta phấn khởi, tự hào với những thành quả đã đạt được, những thành quả đó đã tô đậm thêm truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta. Nhân dịp này cán bộ, hội viên Hội Người mù Việt Nam xin trân thành cảm ơn Ban Bí thư Trung ương Đảng, Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc, các Bộ, Ngành, đoàn thể, các cấp Ủy đảng, Chính quyền địa phương và nhân dân đã thương yêu, tạo điều kiện cho người mù và Hội Người mù Việt Nam vượt qua những khó khăn rào cản trở thành người có ích cho xã hội, góp phần xây dựng đất nước ngày càng giàu đẹp.
Nơi nhận: - Ban Bí Thư TW Đảng - Ban DVTW Đảng (để Báo cáo) - BLĐTBXH, BNV; - Các Tỉnh, Thành hội; TT, VP2 - Lưu TC, VT |
TM. BAN THƯỜNG VỤ TW HỘI CHỦ TỊCH
Cao Văn Thành
|